Bản sắc văn hóa dân tộc là một tập hợp các nét đặc thù, độc đáo của mỗi dân tộc mang tính chất thiêng liêng, cao quý. Bản sắc văn hóa nào cũng được hình thành trong những giai đoạn lịch sử nhất định của dân tộc và được các thế hệ đi trước lưu truyền cho thế hệ sau. Để hiểu rõ hơn về khái niệm của bản sắc văn hóa dân tộc là gì cũng như vấn đề gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc ở Việt Nam hiện nay, các bạn hãy cùng Luận Văn 99 theo dõi bài viết sau nhé.
Dân tộc là một thuật ngữ có nguồn gốc xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ đại - “ethos”. Thuật ngữ này dùng để đề cập đến những cộng đồng người hình thành và phát triển trong quá trình tự nhiên lịch sử. Theo đó, mỗi dân tộc sẽ được phân biệt với nhau qua những đặc trưng riêng biệt riêng như: tiếng nói, lối sống, văn hóa, ý thức tự giác dân tộc và lãnh thổ.
Ở phương Đông cổ đại, từ “văn hóa” đã có mặt trong đời sống ngôn ngữ Trung Hoa từ rất sớm. Theo đó, Văn là đẹp, Hóa là trở thành, biến cải, Văn hóa là làm cho cái gì đó trở nên có giá trị.
Ở phương Tây cổ đại, thuật ngữ văn hóa (cultural) là sự giáo dục làm cho phong phú tinh thần và trí tuệ của con người.
Định nghĩa của Edward Burnett Tylor trong cuốn Văn hóa nguyên thủy, xuất bản ở Luân Đôn năm 1871, được xem là định nghĩa đầu tiên có tính kinh điển về văn hóa: “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực cũng như thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách là thành viên trong xã hội”
Như vậy có thể khái quát rằng: Văn hoá là toàn bộ những giá trị liên quan đến vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong suốt quá trình hoạt động thực tiễn, xã hội - lịch sử của mình trên cả hai lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần.
Khái niệm văn hóa là gì?
Cụm từ “Bản sắc” có nguồn gốc từ Hán - Việt, với nội dung chính là cái gốc, cái căn bản, cái cốt lõi… còn hình thức chính là sự biểu hiện cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân đó ra ngoài. Trong tổng thể các giá trị văn hóa truyền thống sẽ có những giá trị cốt lõi, ổn định, tinh túy nhất làm căn cứ so sánh văn hóa dân tộc này với văn hóa dân tộc khác, đó chính là cái riêng không thể hòa lẫn của mỗi dân tộc.
Bản sắc văn hóa là những nét đặc trưng, độc đáo và cơ bản nhất để từ đó chúng ta nhận diện một nền văn hoá và có cơ sở phân biệt nền văn hoá này với một nền văn hoá khác. Có thể hiểu đơn giản rằng: Bản sắc văn hoá là hệ thống các giá trị đặc trưng, bản chất của một nền văn hoá được xác lập, tồn tại, phát triển theo chiều dài lịch sử và được biểu hiện thông qua nhiều sắc thái văn hóa. Trong bản sắc văn hóa, các giá trị đặc trưng bản chất là cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững; còn các sắc thái biểu hiện của nó có tính tương đối cụ thể, bộc lộ và biến đổi hơn.
Bản sắc văn hóa dân tộc là tổng thể các giá trị vật chất, tinh thần tinh túy nhất, đặc trưng, tiêu biểu, phản ánh tính chất, tính cách, phẩm chất của mỗi dân tộc, là dấu hiệu cơ bản để phân biệt văn hoá của dân tộc này với dân tộc khác. Những giá trị này tiềm ẩn trong tâm thức, cốt cách của mỗi người và được thể hiện ra trên mọi mặt của đời sống, trong mọi hoạt động và quan hệ của con người và trong di sản văn hóa của mỗi dân tộc.
Xem thêm:
➢ Phong tục tập quán là gì? Đặc điểm, vai trò của phong tục tập quán
Bản sắc văn hóa dân tộc vừa khắc họa chân dung dân tộc, vừa tạo nên nội lực quan trọng thúc đẩy dân tộc phát triển. Việc đánh mất “chân dung” của dân tộc, chính là từ bỏ bản thân mình, trở nên lệ thuộc vào thế giới bên ngoài. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc sẽ góp phần khẳng định nền độc lập, tự chủ đích thực của dân tộc, là điều kiện góp phần đảm bảo cho dân tộc Việt Nam hội nhập, hợp tác và phát triển.
Bản sắc văn hoá dân tộc là nội dung cốt lõi của nền văn hoá dân tộc, đảm bảo cho dân tộc trường tồn qua các biến động của lịch sử. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc sẽ góp phần khẳng định nền độc lập, tự chủ đích thực của dân tộc, là điều kiện đảm bảo để đất nước hội nhập và phát triển. Đồng thời, tăng cường củng cố, nâng cao lòng tự hào dân tộc, giúp cho thế hệ trẻ hiểu sâu sắc hơn lịch sử, truyền thống dân tộc; khơi dậy niềm tin, xây dựng bản lĩnh con người Việt Nam, trước những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường; phát huy mọi tiềm năng về thể lực, trí lực và nhân cách của con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bản sắc văn hoá dân tộc được thể hiện trong các chuẩn mực xã hội, có tính ổn định bền vững, có sức mạnh to lớn đối với cộng đồng, góp phần định hướng hành động của mỗi người dân. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở, điều kiện cần thiết để khẳng định nguồn lực nội sinh. Bởi vì, nội lực văn hoá dân tộc vừa bao trùm bản sắc văn hóa, vừa bao hàm bản lĩnh văn hóa dân tộc. Đây là nền tảng chủ yếu để xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và là động lực để phát triển đất nước. Vì vậy, cần phát huy bản sắc văn hóa dân tộc một cách sáng tạo, linh hoạt, phải kết tinh và nâng lên tầm cao mới những đặc điểm tích cực của dân tộc và thế giới, trên cơ sở tạo lập bước đi thích hợp, khai thác và phát huy có hiệu quả nguồn nội sinh nhằm phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bản sắc văn hoá dân tộc là những đặc trưng, sắc thái riêng tiêu biểu nhất của dân tộc để phân biệt văn hoá của cộng đồng này với cộng đồng khác, dân tộc này với dân tộc khác. Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã tác động mạnh mẽ, làm chuyển đổi các giá trị, chuẩn mực văn hoá và lối sống, nếp nghĩ, tầm nhìn của mỗi cá nhân và cộng đồng. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nhằm giao lưu, tiếp biến, bổ sung những tinh hoa văn hóa nhân loại, để bản sắc văn hoá Việt Nam ngày càng giàu đẹp, tạo động lực để xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vị trí, vai trò của bản sắc văn hóa dân tộc
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, qua sự giao lưu và tiếp thu những tinh hoa văn hóa của các nền văn hóa khác trong khu vực và trên thế giới. Trong bài viết này, chúng ta sẽ chỉ tìm hiểu một số nội dung cơ bản thuộc bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, cụ thể là: Chủ nghĩa yêu nước; ý thức đoàn kết cộng đồng; tinh thần nhân ái, tôn trọng tình nghĩa, tâm lýmtrọng đạo đức; truyền thống hiếu học.
Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam được thể hiện thông qua ý chí, tình cảm của người dân Việt, có chiều sâu trong tâm linh, trong tâm tưởng của dân tộc. Tình cảm, ý chí ấy vô cùng mãnh liệt, kết tinh lại trở thành những làn sóng ngầm và biểu hiện rõ ràng nhất qua các cuộc chiến chống lại quân xâm lược.
Tinh thần yêu nước tồn tại bên trong bất kỳ dân tộc nào, tuy nhiên mức độ sâu sắc của nó trong mỗi dân tộc là khác nhau tùy theo hoàn cảnh lịch sử tạo ra. Cái độc đáo trong hoàn cảnh lịch sử dân tộc Việt Nam là nhân dân ta phải trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, chúng ta phải trường kỳ kháng chiến chống giặc ngoại xâm liên tục nhiều năm với nhiều đế quốc hùng mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Và do đó, tinh thần yêu nước của dân tộc ta có thể coi như một “tôn giáo” chính thống. Hay nói cách khác, tinh thần yêu nước là giá trị chủ đạo trong bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt toàn bộ lịch sử nước ta từ cổ đại đến bây giờ. Thông qua tình thần yêu nước, bản chất Việt Nam được biểu lộ đầy đủ và tập trung nhất, hơn bất cứ chỗ nào khác.
Lịch sử là một minh chứng hùng hồn nhất cho những khẳng định trên. Từ những thế kỷ đấu tranh chống ngoại bang xâm lược phương Bắc và những giai đoạn chống sự đô hộ, cai trị của chúng đến những thắng lợi vang dội của các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, yêu nước đã thực sự trở thành một thứ vũ khí tinh thần. Trong bối cảnh hiện tại, tinh thần yêu nước của dân tộc Việt nam được biểu hiện thông qua lòng tự hào dân tộc, sự tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, tinh thần vượt khó, vượt nghèo, tinh thần đoàn kết, đấu tranh chống lại những cái bảo thủ, trì trệ trong tư duy, trong suy nghĩ và cách làm, chống lại các thói hư, tật xấu,...
Chủ nghĩa yêu nước
Nhân ái là tình cảm đạo đức không phải của riêng một dân tộc nào. Bất kỳ dân tộc nào cũng có lòng nhân ái, tuy nhiên sự biểu hiện của lòng nhân ái ở mỗi dân tộc là khác nhau. Bởi lẽ
sự nhân ái của từng dân tộc được nảy sinh dựa trên những cơ sở, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử và môi trường xã hội khác nhau.
Nguồn gốc lòng nhân ái của dân tộc Việt Nam có từ xã hội công xã nông thôn thời kỳ nguyên thuỷ. Như chúng ta đã biệt, Việt Nam là quốc gia có lịch sử nhiều ngàn năm, trong khoảng thời gian dài như vậy, dân tộc ta đã hình thành nền văn hoá mang bản sắc riêng của mình. Một trong số đó là lòng nhân ái - tình cảm đạo đức được xem như là một giá trị văn hoá rất cơ bản trong hệ giá trị của người Việt Nam.
Xét theo nghĩa chung nhất, nhân ái được hiểu là lòng yêu thương con người, chống lại cái ác, hướng đến cái thiện, sự khoan dung, độ lượng, vì quyền tự do và hạnh phúc cao cả của con người. Nó được hình thành bởi các điều kiện lịch sử - xã hội và những đòi hỏi bức thiết của cuộc sống và việc kế thừa những yếu tố tích cực trong các học thuyết Nho, Phật, Lão. Tình yêu thương máu mủ ruột thịt trong gia đình được mở rộng ra xóm làng rồi cả nước, vị tha với cả kẻ thù… trở thành một nếp nghĩ, một cách sống, một bản sắc văn hóa dân tộc đặc sắc. Hiện nay, giá trị bản sắc này đang bị đe dọa, có biểu hiện suy giảm trong lối sống của không ít cá nhân. Dễ thấy nhất có lẽ là lối sống ngoại lai ích kỷ, hẹp hòi, phi nhân tính đang có chiều hướng lấn át lối sống giàu nghĩa tình truyền thống.
Ý thức cộng động (cá nhân, gia đình, làng xã, Tổ quốc) là một bản sắc quý báu, một giá trị tinh thần to lớn của dân tộc ta. Theo từ điển Tiếng Việt, đoàn kết được định nghĩa là kết thành một khối, thống nhất ý chí, không đối nhau, không mâu thuẫn nhằm đạt tới mục đích chung nhất. Còn ý thức đoàn kết cộng đồng là sự đồng thuận vì một mục tiêu chung của mọi người.
Từ thực tế lịch sử Việt Nam, trải qua trải qua các thế hệ nối tiếp, ý thức xây dựng và củng cố mối đoàn kết gắn bó họ hàng, làng nước được tăng cường. Ngay từ những nhà nước sơ khai, người dân nước Việt ta đã biết hợp quần, hợp sức, tạo thành một sự cố kết chính trị bền vững, giúp ích lớn trong chính cuộc sống - sự ra đời của bộ lạc Văn Lang và nhà nước Âu Lạc. Trong suốt chiều dài lịch sử sau đó, nét bản sắc văn hóa dân tộc này luôn giữ vững vị trí của một nội dung quan trọng, có sự ảnh hưởng sâu sắc tới không chỉ văn hóa dân tộc, mà còn tới cả sự nghiệp bảo vệ, giữ gìn, phát triển của Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học và sớm đã hình thành nét bản sắc văn hóa hiếu học. Truyền thống hiếu học tập hợp những quan niệm, thái độ, tập quán, thói quen lâu đời về sự quan tâm, coi trọng việc học tập. Sự nỗ lực học tập cũng như các biểu hiện về mục tiêu học tập tạo động lực cho sự quan tâm và nỗ lực này của một cộng đồng, đã hình thành trong lịch sử, trở nên tương đối ổn định, được truyền từ đời này sang đời khác và được thể hiện trong tâm lý, lối sống của cộng đồng. Nội dung bản sắc này hình thành do điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của Việt Nam và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Quốc (đặc biệt là đạo Nho). Biểu hiện rõ nét thông qua việc quan tâm chăm lo, phát huy giá trị tích cực của bản sắc này trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc ta, từ thành thị tới nông thôn, các tấm gương hiếu học được nêu cao tuyên dương, hình thành các làng hiếu học… Hiếu học và tinh thần “tôn sư trọng đạo” đã trở thành nét đẹp văn hóa của dân tộc ta. Nó góp phần định hướng giá trị trong quá trình phát triển xã hội. Toàn cầu hóa gắn liền với kinh tế tri thức là một cuộc cạnh tranh gay gắt nên nó đặt ra yêu cầu cao về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, từ đó buộc người lao động phải tích cực học tập, nâng cao hiểu biết và coi trọng học tập như một nhu cầu bức thiết.
Trên đây là những nội dung cơ bản của bản sắc văn hóa Việt Nam, trong thời đại mới, nó chịu sự tác động mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa. Yêu cầu tất yếu là chúng ta cần phải giữ gìn, phát huy chúng một cách triệt để, tạo sức mạnh khiến bản sắc văn hóa Việt Nam tỏa sáng những giá trị bền vững trên phạm vi toàn cầu, góp phần không nhỏ tới sự phát triển chung của quốc gia, dân tộc. Vậy gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là gì? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu ở phần tiếp theo của bài viết.
Truyền thống hiếu học
Bài viết cùng chuyên mục:
➢ 101 Đề tài tiểu luận triết học cao học dễ thực hiện
Nói đến bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là nói đến cái điển hình, độc đáo trong cái bản sắc chung của nhân loại. Những nét độc đáo riêng biệt này không khiến cho đất nước ta tác biệt tách biệt với thế giới mà trong xu thế toàn cầu hóa nói chung, một số nội dung của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trình bày ở trên đứng trước những thời cơ và thách thức nhất định. Việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần vào sự thắng lợi của sự nghiệp phát triển toàn diện đất nước đất nước trong bối cảnh mới.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc được hiểu đó là sự bảo tồn, lưu giữ những giá trị văn hóa của dân tộc, kịp thời ngăn chặn ảnh hưởng xấu từ những yếu tố phản văn hóa, không phù hợp, có hại cho sự phát triển của nền văn hóa.
Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được hiểu là sự thể hiện, làm cho những tinh hoa văn hóa ấy được sống động, phát triển, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát triển văn hóa, giảm nghèo, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy còn là sự tiếp thu các giá trị văn hóa của các quốc gia khác làm phong phú thêm bản sắc văn hóa.
Ở một góc độ khác, có thể hiểu giữ gìn có nghĩa là nghiên cứu, khai thác cái vốn có nhưng không phải phục cổ, máy móc; không những chỉ bảo vệ nhằm ngăn chặn sự xâm hại từ nhiều phía, mà còn phải bảo tồn để nuôi dưỡng, vun đắp cho nó mãi mãi trường tồn. Còn phát huy, tức là cái tốt, cái đẹp được chọn lọc, trau chuốt, nâng cao, nhân rộng, cải tiến. Và, kế thừa, phát huy cũng đồng nghĩa với việc kế thừa, tiếp thu có chọn lọc cái tốt đẹp từ dân tộc khác, cải biến cho phù hợp với dân tộc mình.
Văn hóa là sức mạnh nội sinh liên kết các cộng đồng người, là cội nguồn của một dân tộc. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là sự cần thiết mang tính tất yếu, khách quan, bởi lẽ xuất phát từ vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của văn hóa và bản sắc văn hóa đối với sự tồn tại, phát triển đất nước. Ngoài ra, đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức do mặt trái của kinh tế thị trường, của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, của toàn cầu hóa... đang gây ra, con người ngày càng phải chú trọng tới việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong Hội nghị ngoại giao lần thứ 25, Đảng đã xác định: ngoại giao văn hóa cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế là ba trụ cột chính của ngoại giao Việt Nam. Trên cơ sở những kinh nghiệm đạt được, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2029, xác định ngoại giao văn hóa là nhiệm vụ chung của cả nước.
Trong bối cảnh hiện nay, khi toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra khiến cho ranh giới giữa các quốc gia bị lu mờ thì giao lưu văn hóa trở thành hiện tượng tất yếu, tạo điều kiện cho người dân thụ hưởng tốt hơn các thành tựu văn hóa chung của nhân loại.
Trong xu thế toàn cầu hóa thì việc mở cửa, giao lưu, hội nhập văn hóa ngày càng trở nên sâu rộng ở mọi quốc gia, bản lĩnh văn hóa Việt Nam nói chung và bản lĩnh văn hóa dân tộc trong cộng đồng 54 anh em dân tộc Việt Nam đứng trước những thách thức lớn, liên quan đến việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Gìn giữ bản sắc văn hóa trong xu thế toàn cầu hóa là một quá trình gồm nhiều mối quan hệ biện chứng, trong đó bao gồm sự giao lưu, tiếp biến và đào thải.
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, vấn đề gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa đã đạt được những thành tựu đáng kể. Trên lĩnh vực văn hóa, các hoạt động sáng tạo có bước phát triển mới không chỉ trung thành với “điển xưa, tích cũ”, trung thành với một mô tuýp có sẵn mang tính định hướng. Có nhiều bộ sưu tập công phu từ kho tàng văn hóa Việt Nam trong nhiều thế kỷ được xuất bản, tạo cơ sở nghiên cứu, gìn giữ và phát huy những giá trị cốt lõi của dân tộc.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Bản sắc văn hóa là dấu hiệu cơ bản đặc trưng của một dân tộc, phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Việt Nam là đất nước nông nghiệp, chiếm khoảng 80% dân số. Như vậy, văn hóa truyền thống Việt Nam không phải là văn hóa thành thị, mà đặc điểm cơ bản của văn hóa truyền thống Việt Nam là văn hóa làng xã, văn hóa miệt vườn, sông nước.
Trên đây, chúng tôi đã cùng bạn đọc đi tìm hiểu các vấn đề xoay quanh khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc là gì và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Mong rằng với những chia sẻ trên đây, bạn đọc đã có thêm những kiến thức hữu ích trong học tập, nghiên cứu cũng như trong công việc, cuộc sống.
- VP Hà Nội: Tòa nhà Nam Đô, 609 Trương Định, Thịnh Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội
- VP HCM: Tòa nhà Dali, 24C, Phan Đăng Lưu, P.6, Bình Thạnh, Hồ Chí Minh
Điện thoại: 0989-546-803
Email: dichvuluanvan99@gmail.com
Copyright © 2008 by LV99 - Top các dịch vụ viết thuê luận văn uy tín