Khi tìm hiểu về bất cứ chủ đề nào, chúng ta đều quan tâm đến bản chất thật sự của chủ đề đó. Để có thể sống trong một xã hội có trật tự, chúng ta không thể phủ nhận vai trò của pháp luật. Do đó, khi hiểu rõ bản chất của pháp luật sẽ giúp ta chấp hành luật pháp tốt hơn. Vậy, pháp luật là gì? Nguồn gốc, bản chất và các đặc trưng của của pháp luật là gì? Chúng ta cùng tìm hiểu qua bài viết sau cùng Luận Văn 99 nhé.
Cùng với sự xuất hiện của nhà nước, pháp luật lúc này cũng bắt đầu được thiết lập và được nhà nước sử dụng như một công cụ để quản lý xã hội, bảo vệ địa vị và quyền lợi của giai cấp thống trị. Nói cách khác, nguồn gốc của pháp luật gắn liền với mầm mống đầu tiên của nhà nước.
Trong xã hội nguyên thủy, khi chưa có sự xuất hiện của nhà nước, lúc bấy giờ quan hệ của các thành viên trong xã hội chỉ được điều chỉnh thông qua các phong tục, tập quán, tín điều tôn giáo, đó là những quy tắc mang tính giản đơn. Việc thực hiện những khuôn mẫu ấy được thực hiện một cách tự giác, tự nguyện, không có sự cưỡng chế bằng bộ máy bạo lực chuyên nghiệp nào. Những hành vi vi phạm có thể bị cưỡng chế, nhưng không phải một bộ máy chuyên nghiệp mà là sự cưỡng chế của tập thể xã hội, của cộng đồng để duy trì và bảo vệ trật tự chung trong xã hội. Đến khi xã hội có sự phân hóa giai tầng và xuất hiện nhà nước. Ở giai đoạn này, các phong tục, tập quán, tín điều tôn giáo không còn phù hợp cho việc bảo vệ địa vị, quyền lợi của giai cấp thống trị nữa. Lúc này, giai cấp thống trị chỉ giữ lại một số quy tắc, phong tục, tập quán, tín điều tôn giáo phù hợp và có lợi cho giai cấp mình. Tuy nhiên, do sự phát triển của các loại quan hệ xã hội, nhiều quan hệ xã hội mới phát sinh cần được điều chỉnh, nhà nước đã thiết lập thêm nhiều quy tắc mới. Hệ thống các quy tắc mới này được gọi là pháp luật. Từ bước hình thành ban đầu như vậy, hệ thống pháp luật của các nhà nước dần hình thành và phát triển theo thời gian, tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc và mỗi vùng địa lý khác nhau.
Nói tóm lại, nguồn gốc của pháp luật xuất phát từ hai lý do sau:
Chính vì vậy mới nói rằng sự hình thành của pháp luật gắn liền với sự phát triển của các kiểu nhà nước.
Xem thêm:
➣ Nhà nước là gì? Bản chất của Nhà nước là gì?
Từ việc phân tích nguồn gốc pháp luật đã nêu ở phần trên, ta có thể đưa ra khái niệm tổng quát về pháp luật như sau:
“Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội.”
Từ khái niệm trên, ta có thể rút ra 03 đặc điểm cơ bản của pháp luật là:
Khái niệm pháp luật là gì?
Bạn đang thực hiện đề tài tiểu luận pháp luật đại cương hay các bài luận khác liên quan đến pháp luật? Bạn muốn tìm tài liệu tham khảo hay cần sự hỗ trợ trong quá trình thực hiện viết tiểu luận? Tham khảo ngay dịch vụ viết thuê tiểu luận của chúng tôi! |
Theo PGS.TS. Nguyễn Văn Động, bản chất của pháp luật là những thuộc tính bền vững tạo nên nội dung, cốt lõi bên trong của pháp luật, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của pháp luật.
Pháp luật ra đời trên cơ sở ý chí của giai cấp thống trị, cầm quyền của cộng đồng xã hội được nâng lên thành các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành. Pháp luật chính là công cụ quản lý xã hội của Nhà nước theo lợi ích của giai cấp cầm quyền. Mục đích của pháp luật là nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể trong xã hội, điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Để giảm bớt sự đối kháng giai cấp, nhằm thực hiện được mục tiêu quản lý xã hội của nhà nước và sâu xa hơn là nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị, pháp luật cũng thể hiện sự thỏa hiệp giai cấp bằng việc thừa nhận, bảo vệ ở mức độ nhất định lợi ích của các thành viên trong xã hội.
Bản chất của pháp luật được thể hiện ở: Tính giai cấp và tính xã hội.
Pháp luật thể hiện tính giai cấp vì pháp luật là công cụ quản lý của nhà nước. Trong đó, nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp.
Tính giai cấp thể hiện qua quá trình tạo lập nên nhà nước. Trên cơ sở sự hình thành của nhà nước, pháp luật được hình thành. Do vậy, pháp luật cũng thể hiện tính giai cấp.
Nhu cầu hình thành pháp luật là nhằm thiết lập trật tự xã hội theo mục đích của giai cấp cầm quyền, thống trị. Do đó pháp luật phản ánh ý chí của giai cấp cầm quyền, thống trị.
Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai cấp cầm quyền, thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình theo cách tập trung, thống nhất thông qua hệ thống các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành và các hoạt động áp dụng pháp luật của nhà nước. Pháp luật được thiết lập với mục đích phục vụ và bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, bảo vệ và phát triển những giá trị mà giai cấp thống trị theo đuổi.
Mục đích của pháp luật là tạo ra một trật tự xã hội ổn định, phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị. Như vậy, pháp luật thể hiện sự thống trị của giai cấp thống trị đối với các giai cấp khác, tầng lớp khác.
C.Mác và Ph. Anghen khi nghiên cứu về giai cấp tư sản đã khẳng định: Pháp luật của giai cấp tư sản là ý chí của giai cấp tư sản được đề lên thành luật pháp, ý chí mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp tư sản quyết định.
Ví dụ, pháp luật của nhà nước tư sản luôn hướng tới việc bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản. Pháp luật của nhà nước phong kiến luôn bảo vệ quyền lợi của vua chúa, của giai cấp địa chủ. Pháp luật xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân và hướng mọi người sống tự do, bình đẳng, bảo đảm thực sự dân chủ và công bằng xã hội…
Là sản phẩm của nhà nước, bên cạnh việc phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị, pháp luật còn nhằm phục vụ nhu cầu của các thành viên trong xã hội. Thuộc tính xã hội là một thuộc tính khách quan, mang tính tất yếu và phổ biến của pháp luật.
Để duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội, nhà nước cũng cần quan tâm đến ý chí và lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp khác nhau trong xã hội và giải quyết các vấn đề phát sinh trong xã hội ví dụ như: tội phạm, thất nghiệp, tệ nạn xã hội, môi trường…
Pháp luật được hình thành xuất phát từ nhu cầu của cuộc sống chung giữa con người với con người. Pháp luật được thiết lập để xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh. Do vậy, pháp luật phải bao quát tất cả nội dung của cuộc sống xã hội. Nó phải tuân thủ và giải quyết nhiều yêu cầu của xã hội con người và các yêu cầu đó về nguyên tắc có ảnh hưởng lẫn nhau, có khi loại trừ nhau. Các quy phạm pháp luật xuất phát từ cơ sở thực tiễn của đời sống xã hội, phản ánh các nhu cầu , lợi ích của giai cấp và các tầng lớp khác nhau trong xã hội, được toàn xã hội chấp nhận và xem là chuẩn mực, quy tắc xử sự chung. Các hành vi xử sự của cá nhân, tổ chức phải phù hợp với những quy định của pháp luật mới làm cho xã hội phát triển trong vòng trật tự, ổn định từ đó bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Sự vận hành của các quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật và phù hợp với quy định của pháp luật tạo nên một trật tự xã hội đặc biệt, đó là trật tự pháp luật, cấu thành của trật tự xã hội.
Giá trị xã hội của pháp luật thể hiện ở chỗ pháp luật là thước đo hành vi của con người, là công cụ để nhận thức xã hội và điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với quy luật phát triển khác quan. Thông qua pháp luật, những giá trị của xã hội, những giá trị mà cả cộng đồng xã hội thừa nhận, trân trọng được bảo vệ và phát triển. Ví dụ như quyền bình đẳng giữa nam và nữ, sự trân trọng đối với người phụ nữ, …
Dựa vào pháp luật, có thể xác định được sự tiến bộ, mức độ phát triển của xã hội. Mức độ phát triển của pháp luật chịu ảnh hưởng vào mức độ phát triển của xã hội. Do vậy, giá trị xã hội của các kiểu pháp luật khác nhau rất khác nhau. Giá trị xã hội của pháp luật chủ nô khác với giá trị xã hội của pháp luật tư sản hoặc pháp luật xã hội chủ nghĩa. Mặc dù vậy, ở một mức độ nhất định, pháp luật chủ nô cũng giữ vai trò quan trọng trong quá trình tiến hóa của xã hội. Cùng với sự phát triển lịch sử của pháp luật, giá trị xã hội của pháp luật cũng ngày càng tăng lên, đặc biệt đối với pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Trong thời đại hiện nay, tính xã hội của pháp luật không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, mà còn mở rộng, có quan hệ đến nhiều quốc gia trong khu vực và lan rộng ra toàn thế giới.
Tóm lại, pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã hội sâu sắc. Hai thuộc tính này có mối liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Do những điều kiện khách quan và chủ quan, sự thể hiện tính giai cấp và tính xã hội của pháp luật là khác nhau trong các kiểu nhà nước.
Hiểu được bản chất của pháp luật giúp xác định được nội dung của pháp luật cũng như mục tiêu của pháp luật:
Thứ nhất, bản chất của pháp luật giúp xác định được nội dung các quy định của pháp luật. Chúng ta sẽ giải thích được tại sao các quan hệ xã hội này được điều chỉnh và tại sao được điều chỉnh như thế. Ví dụ, hiểu được bản chất của pháp luật tư sản giúp hiểu được việc ban hành các đạo luật về các công ty đa quốc gia, các đạo luật về chống quốc hữu hóa của nhà nước tư sản.
Thứ hai, bản chất của pháp luật giúp xác định được mục tiêu của pháp luật. Mục tiêu của pháp luật là những kết quả mà pháp luật hướng tới thông qua việc ban hành các quy tắc để điều chỉnh hành vi của các chủ thể, cũng như quan hệ giữa các chủ thể trong xã hội. Ví dụ, hiểu được bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa giúp xác định được mục tiêu của pháp luật xã hội chủ nghĩa là xây dựng một xã hội công bằng cho tất cả mọi người dân, mang lại lợi ích cho tất cả thành viên trong xã hội.
Thứ ba, bản chất của pháp luật giúp chúng ta xác định được pháp luật đó là của ai, do ai và vì ai. Việc xác định được nội dung, mục tiêu của pháp luật sẽ giúp ta xác định được pháp luật này thực chất là mang lại lợi ích cho ai, phục vụ quyền và lợi ích của ai, đặc biệt là trong xã hội có giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, pháp luật được coi như một công cụ để bảo vệ và phục vụ quyền lợi của giai cấp thống trị.
Thông qua bản chất của pháp luật, chúng ta phân biệt được các kiểu pháp luật. Bởi bản chất của pháp luật quyết định kiểu pháp luật. Giống như bản chất của nhà nước quyết định kiểu nhà nước.
Nói đến đặc trưng của pháp luật là nói đến các thuộc tính căn bản của nó. Pháp luật có 06 thuộc tính, cụ thể:
Khi pháp luật được nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, nó sẽ có sức mạnh của quyền lực nhà nước. Trong các trường hợp cần thiết, nhà nước sẽ tổ chức cưỡng chế bắt buộc các chủ thể thi hành luật. Đặc trưng này chỉ có ở pháp luật.
Ví dụ: Song song với việc ban hành pháp luật là việc tổ chức các cơ quan quyền lực nhà nước mang tính cưỡng chế, thực thi pháp luật như: công an, quân đội, cảnh sát, nha tù… các cơ quan này thể hiện sức mạnh thực thi pháp luật của nhà nước.
Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, đó là các khuôn mẫu, chuẩn mực cho hành vi của con người. Tính quy phạm của pháp luật nói lên giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để mọi người có thể (hoặc bắt buộc) xử sự trong khuôn khổ cho phép, nếu vượt quá khuôn khổ cho phép đó được xem là trái luật. Các khuôn khổ này được nhà nước quy định ở nhiều khía cạnh khác nhau như cho phép, cấm đoán, bắt buộc… Vì vậy, nếu pháp luật không có tính quy phạm thì không thể quy kết một hành vi cụ thể nào đó là được phép hay vi phạm, trái luật cả.
Pháp luật luôn là hiện tượng ý chí. Về bản chất, ý chí trong pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị. Ý chí này thể hiện ở mục đích xây dựng pháp luật, nội dung của pháp luật, biện pháp đảm bảo thực thi pháp luật cũng như dự kiến hiệu ứng của pháp luật khi triển khai trong thực tế.
Trên thực tế, chỉ có lực lượng nào nắm được quyền lực nhà nước thì lực lượng đó mới có khả năng thể hiện và hợp pháp hóa ý chí của mình thành luật pháp.
Là một dạng của quy phạm xã hội, quy phạm pháp luật luôn có hình thức rõ ràng và chặt chẽ hơn các loại quy phạm xã hội khác. Nhờ có tính xác định chặt chẽ về hình thức mà pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội một cách hiệu quả hơn hẳn so với các quan hệ xã hội thông thường. Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức của pháp luật được thể hiện thông qua các khía cạnh:
Vì bản chất pháp luật có tính xã hội nên khi nhà nước ban hành pháp luật dù ít hay nhiều pháp luật vẫn phải thể hiện ý chí, lợi ích của các tầng lớp giai cấp khác trong xã hội. Pháp luật chính là sự phản ánh thực tế khách quan, nhưng sự phản ánh này lại thông qua ý chí chủ quan của nhà làm luật. Do đó, nhà làm luật thường lựa chọn góc độ phản ánh sao cho có lợi nhất cho giai cấp mình, vì thế pháp luật vừa mang tính khách quan đồng thời cũng mang tính chủ quan.
Tính quy phạm phổ biến là thuộc tính đề cập đến tính khuôn mẫu, mực thước, mô hình xử sự có tính phổ biến chung. Trong xã hội không chỉ pháp luật có thuộc tính quy phạm. Đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo, các điều lệ của các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể quần chúng đều có tính quy phạm. Cũng như pháp luật, tất cả các quy phạm trên đều là khuôn mẫu, quy tắc ứng xử của con người. Nhưng khác với đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo, các điều lệ, tính quy phạm của pháp luật mang tính phổ biến. Đây được xem là một dấu hiệu quan trọng để phân biệt pháp luật với các loại quy phạm nêu trên.
Thuộc tính quy phạm phổ biến của pháp luật thể hiện ở chỗ:
Ví dụ: Luật pháp Việt Nam được áp dụng cho công dân Việt Nam và cả những người nước ngoài đang sinh sống, học tập và làm việc tại Việt Nam. Nó được áp dụng rộng rãi, nhiều lần trong khắp lãnh thổ Việt Nam.
Trên đây, Luận Văn 99 đã cùng bạn đọc tìm hiểu nguồn gốc, khái niệm pháp luật là gì cũng như bản chất và các đặc trưng cơ bản của nhà nước. Hy vọng những thông tin này sẽ có ích cho các bạn trong quá trình học tập và thực hiện tiểu luận pháp luật đại cương. Đừng quên chia sẻ đến nhiều người hơn nếu như bạn cũng cảm thấy bài viết này hữu ích nhé!
- VP Hà Nội: Tòa nhà Nam Đô, 609 Trương Định, Thịnh Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội
- VP HCM: Tòa nhà Dali, 24C, Phan Đăng Lưu, P.6, Bình Thạnh, Hồ Chí Minh
Điện thoại: 0989-546-803
Email: dichvuluanvan99@gmail.com
Copyright © 2008 by LV99 - Top các dịch vụ viết thuê luận văn uy tín