Thị trường tài chính không ngừng thay đổi và phát triển đã đặt ra yêu cầu cho Ngân hàng trung ương đổi mới và nâng cao hiệu quả các công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Một trong các công cụ phù hợp và có tác động hiệu quả nhất là nghiệp vụ thị trường mở. Đây được đánh giá là công cụ phổ biến trong điều kiện đổi mới và hội nhập như hiện nay. Vì vậy, trong bài viết này, chúng ta cùng tìm hiểu rõ hơn về khái niệm nghiệp vụ thị trường mở là gì cũng như các nội dung khác liên quan đến khái niệm này.
Về bản chất, nghiệp vụ thị trường mở (Tiếng Anh: Open market operations) chính là các hoạt động giao dịch chứng khoán của ngân hàng trung ương trên thị trường mở. Thông qua các hành vi mua bán chứng khoán này, ngân hàng trung ương tác động trực tiếp lên nguồn vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng và từ đó tác động lên lãi suất thị trường, lượng tiền cung ứng cho lưu thông.
Về hình thức, thị trường mở là thị trường giao dịch các chứng khoán nợ ngắn và dài hạn giữa ngân hàng trung ương với các tổ chức tín dụng. Thị trường mở ở các nước sẽ có sự khác nhau về phạm vi giao dịch, loại hình công cụ giao dịch cũng như thời hạn của các công cụ giao dịch trên thị trường.
Ở Nhật Bản, thị trường mở chỉ giao dịch các chứng khoán nợ ngắn hạn và thành viên của thị trường chỉ bao gồm các tổ chức tín dụng. Thị trường mở của Nhật Bản là một bộ phận của thị trường tiền tệ.
Thị trường mở ở Mỹ và Đức giao dịch cả những chứng khoán dài hạn và là một bộ phận của thị trường chứng khoán.
Chính sách thị trường mở là chính sách tái cấp vốn với lãi suất biến động do Ngân hàng trung ương trực tiếp và chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ để ngăn chặn tình trạng lãi suất tăng lên cao hoặc giảm xuống quá thấp, bằng cách tăng thêm hoặc rút bớt vốn kinh doanh của các ngân hàng thương mại trên thị trường tiền tệ thông qua nghiệp vụ mua bán tín phiếu kho bạc, hối phiếu thương mại và các giấy tờ có giá khác.
Theo Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam: Nghiệp vụ thị trường mở gồm nghiệp vụ mua, bán ngắn hạn các giấy tờ có giá do Ngân hàng nhà nước quy định và thực hiện trên thị trường tiền tệ với mục đích thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở là gì?
Xem thêm:
➢ Đề tài & đề cương Luận văn thạc sĩ Tài chính - ngân hàng miễn phí
Nghiệp vụ thị trường mở được áp dụng lần đầu tiên bởi Ngân hàng Anh từ những năm 30 của thế kỷ 19. Trong thời gian này, lãi suất tái chiết khấu của ngân hàng Anh được sử dụng như một công cụ chủ yếu để kiểm soát lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên, khi lãi suất thị trường tiền tệ liên tục giảm vượt khỏi sự chi phối của lãi suất tái chiết khấu khiến công cụ này kém hiệu lực. Điều này đặt ra yêu cầu Ngân hàng Anh cần tìm kiếm công cụ có hiệu quả hơn để điều chỉnh lãi suất thị trường theo hướng mong muốn.
Cách thức được áp dụng để làm tăng lãi suất thị trường là: Bán chứng khoán chính phủ đồng thời hứa mua lại vào một ngày xác định trong tương lai, vay trên thị trường, bán hẳn các chứng khoán chính phủ, vay từ các ngân hàng thương mại, vay từ người gửi tiền đặc biệt,…Bằng những phương thức này, lãi suất trên thị trường vì thế mà tăng lên.
Cũng trong giai đoạn này, Ngân hàng trung ương Thụy Sĩ và Mỹ cũng sử dụng nghiệp vụ thị trường mở như một công cụ bổ sung cho chính sách tái chiết khấu.
Từ chiến tranh thế giới thứ nhất, nghiệp vụ thị trường mở đã được sử dụng như một công cụ để tài trợ chi phí cho chiến tranh và các hoạt động điều chỉnh kinh tế sau chiến tranh của Chính phủ và ngày càng khẳng định hiệu quả và tầm quan trọng của mình.
Nghiệp vụ thị trường mở được ngân hàng trung ương sử dụng là công cụ thực hiện vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô thông qua tác động vào cơ số tiền và lãi suất, cụ thể:
Tác động về cơ số tiền: Hay còn gọi là tác dụng về lượng, là việc Ngân hàng trung ương tiến hành mua các giấy tờ có giá của các đối tác trên thị trường mở để làm tăng dự trữ của các ngân hàng thương mại từ đó tăng khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng và khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông theo bội số của số nhân tiền. Khi ngân hàng trung ương muốn nới lỏng tiền tệ sẽ tiến hành bán các giấy tờ có giá trên thị trường mở.
Trong nghiệp vụ thị trường mở, việc thay đổi tình trạng dự trữ của các ngân hàng thương mại vẫn sẽ diễn ra và làm thay đổi cơ số tiền dù đối tượng giao dịch với ngân hàng trung ương là chính ngân hàng thương mại hay chỉ là khách hàng có tiền gửi tại ngân hàng thương mại.
Tác động vào lãi suất: Hay còn gọi là tác dụng định giá, tức là hoạt động mua bán trên thị trường mở của Ngân hàng trung ương ảnh hưởng gián tiếp đến lãi suất thị trường qua hai con đường:
Thứ nhất, cung cầu tiền trung ương thay đổi dẫn đến lãi suất thị trường ngân hàng trung ương thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này thông qua dự đoán của thị trường và hoạt động arbitrage về lãi suất sẽ tác động đến lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Tổng cầu của nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết định tại một mức lãi suất mà thị trường xác định.
Thứ hai, việc mua bán chứng khoán làm ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu về các chứng khoán trên thị trường mở và tác động đến giá cả của nó. Khi chứng khoán thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi của tỷ lệ sinh lời. Nếu là những chứng khoán có giá chiếm tỷ trọng lớn trong giao dịch thì sự thay đổi tỷ trọng sinh lời của nó sẽ tác động trở lại lên lãi suất thị trường, sản lượng,…
Theo mục đích tác động, có 2 loại nghiệp vụ thị trường mở gồm: Nghiệp vụ thị trường mở năng động với mục đích thay đổi mức dự trữ và cơ số tiền tệ và nghiệp vụ thị trường mở thụ động để bù lại những chuyển động của nhân tố khác ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ.
Theo hình thức giao dịch, gồm 2 loại là: Giao dịch không hoàn lại là các nghiệp vụ mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá thị trường làm chuyển hẳn quyền sở hữu đối với các chứng khoán là đối tượng giao dịch và giao dịch có hoàn lại được sử dụng cho các giao dịch tạm thời bằng các hợp đồng mua lại.
Ngoài các nghiệp vụ thị trường mở nêu trên, các ngân hàng thương mại còn sử dụng những nghiệp vụ khác sử dụng trong nghiệp vụ thị trường mở, chẳng hạn như: Giao dịch hoán đổi ngoại tệ, giao dịch hoán đổi các chứng khoán hết hạn.
Xét về mặt lý thuyết, nghiệp vụ thị trường mở không chịu sự giới hạn cụ thể nào về chủng loại cũng như thời hạn các giao dịch có giá được phép giao dịch. Tuy nhiên, để công cụ của thị trường mở phát huy tối đa hiệu quả của mình, hàng hóa trên thị trường cần phải thỏa mãn được các điều kiện sau:
Với những điều kiện tiên quyết đã nêu trên, các loại hàng hóa chủ yếu được giao dịch trên thị trường mở bao gồm:
Các nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện thông qua phương thức đấu thầu. Trong phương thức này lại chia ra làm 02 loại là đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất. Theo đó:
Đấu thầu khối lượng:
Là loại hình thức đấu thầu với lãi suất đã được ngân hàng trung ương công bố trước. Dựa trên cơ sở chấp nhận mức lãi suất đã được công bố này, các thành viên tham gia đấu thầu sẽ đăng ký số tiền dự thầu.
Theo phương thức này, để phân phối thầu trước tiên toàn bộ số tiền đăng ký dự thầu sẽ được tổng lại, nếu tổng khối lượng dự thầu thấp hơn hoặc bằng khối lượng ngân hàng trung ương chào bán (hoặc chào mua) thì toàn bộ đơn dự thầu sẽ được phân bổ. Ngược lại, nếu tổng khối lượng dự thầu lớn hơn khối lượng ngân hàng trung ương chào bán (hoặc chào mua) thì khối lượng giấy tờ có giá trúng thầu sẽ được phân bổ tỷ lệ thuận với khối lượng dự thầu của các thành viên tham gia.
Đấu thầu lãi suất:
Là hình thức đấu thầu mà theo đó các thành viên tham gia đấu thầu sẽ được tự đăng ký số lượng dự thầu ứng với một mức lãi suất do bản thân họ đặt ra.
Đối với các phiên đấu thầu mà ngân hàng trung ương chào mua giấy tờ có giá nhằm mục đích cung ứng thêm vốn khả dụng, các đơn dự thầu sẽ được phân phối và sắp xếp theo thứ tự lãi suất từ cao đến thấp nhưng không được vượt quá tổng khối lượng mà ngân hàng trung ương cần mua. Hay nói cách khác, những số lượng đăng ký thầu với lãi suất cao sẽ được ưu tiên phân phối trước cho đến khi đạt được tổng khối lượng giấy tờ có giá mà ngân hàng trung ương cần mua.
Hiệu quả của chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương phụ thuộc vào khả năng điều tiết linh hoạt và chủ động về khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông khi cần thiết và quan trọng là sự điều tiết này phải tạo được các phản ứng tức thời cho thị trường thể hiện qua sự thay đổi lãi suất thị trường, tỷ giá và mức giá cả, sản lượng, việc làm,…Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ điều tiết gián tiếp hiệu quả, là công cụ tài chính quan trọng để Ngân hàng trung ương điều hành chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường.
Hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở tạo ra một kênh hiệu quả cho các tổ chức tín dụng điều chỉnh vốn khả dụng linh hoạt trong kinh doanh, thu hút bớt vốn thừa khi tổ chức tín dụng thừa vốn và bơm thêm khi tổ chức tín dụng thiếu vốn.
Nghiệp vụ thị trường mở làm tăng tính thanh khoản tài sản Có của các tổ chức tín dụng khi tạo nên thị trường thứ cấp cho các tài sản tài chính mà các đơn vị này nắm giữa từ đó giảm dự trữ tiền mặt và tăng khả năng sinh lời của đồng vốn, giúp các tổ chức tín dụng cải thiện tình hình tài chính.
Trên đây, Luận Văn 99 đã cùng bạn đọc tìm hiểu khái niệm, cơ chế vận hành, vai trò của nghiệp vụ thị trường mở cũng như thực trạng nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam hiện nay. Luận Văn 99 hy vọng với những chia sẻ này, bạn đọc sẽ có thêm những kiến thức hữu ích về khái niệm nghiệp vụ thị trường mở là gì.
- VP Hà Nội: Tòa nhà Nam Đô, 609 Trương Định, Thịnh Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội
- VP HCM: Tòa nhà Dali, 24C, Phan Đăng Lưu, P.6, Bình Thạnh, Hồ Chí Minh
Điện thoại: 0989-546-803
Email: dichvuluanvan99@gmail.com
Copyright © 2008 by LV99 - Top các dịch vụ viết thuê luận văn uy tín